Bạn đang xem bài viết Ngày Càng Nhiều Người Mua Thuốc Chống Trầm Cảm được cập nhật mới nhất trên website Sdbd.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Báo cáo của Express Scripts cho thấy tại Mỹ, việc sử dụng thuốc theo toa để điều trị sức khỏe tâm thần tăng 20% từ giữa tháng 2 đến giữa tháng 3. Trong cùng khoảng thời gian đó, đơn thuốc chống lo âu tăng vọt 34%, trong khi thuốc chống trầm cảm tăng 18%.
Trong số các đơn thuốc này, hơn 75% là đơn thuốc mới. Trước khi đại dịch diễn ra, số lượng đơn thuốc chống lo âu đã giảm 12% ở giai đoạn 2015-2019, theo báo cáo.
“Chúng ta sử dụng càng ngày càng nhiều thuốc chống trầm cảm để điều trị cả chứng lo âu và trầm cảm”, ông Michael Liebowitz, giáo sư tâm thần học tại Đại học Columbia, nhận định.
Ông cho rằng sự gia tăng đột biến của đơn thuốc chống lo âu thời gian gần đây là do chúng có tác dụng nhanh, không giống như thuốc chống trầm cảm.
Ông Liebowitz và nhiều chuyên gia sức khỏe tâm thần khác dự đoán đại dịch sẽ có tác động đáng kể đến sức khỏe tâm thần. Ông mô tả dịch Covid-19 là “yếu tố gây căng thẳng lớn” và những người dễ bị lo lắng và trầm cảm càng khó đối mặt hơn.
“Không ai biết virus ở đâu, không ai biết ai sẽ là người bị nhiễm tiếp theo, không ai biết làm cách nào để giữ an toàn cho mọi người trong thế giới của họ và không ai biết nó sẽ kéo dài bao lâu”, Spector nói thêm.
Nhiều bệnh nhân của cô yêu cầu tăng số buổi trị liệu mỗi tuần. Một số bệnh nhân mới cũng liên lạc, một số khác đã ngừng trị liệu lại phải quay trở lại.
“Rõ ràng mọi người dùng nhiều thứ để kiểm soát nỗi lo hơn. Chúng ta biết rằng việc sử dụng rượu bia và cần sa cũng tăng lên. Tôi đã cố gắng bảo bệnh nhân thử làm những việc khác để kiểm soát nỗi lo trước khi uống một viên thuốc”, cô Spector tiết lộ.
Ông Liebowitz dự đoán số đơn thuốc chống lo âu và thuốc chống trầm cảm sẽ còn gia tăng “trong một vài năm tới”. Ông hy vọng đại dịch sẽ thúc đẩy các phương pháp điều trị tốt hơn cho sức khỏe tinh thần.
“Trong một vài năm gần đây, có một sự quan tâm mới đối với các phương pháp điều trị sức khỏe tâm thầm. Tôi hy vọng điều này sẽ đẩy nhanh tất cả những thứ đó vì nhu cầu điều trị sức khỏe tâm thần là rất lớn”, ông nói thêm.
Thuốc Chống Trầm Cảm Amitriptyline
Hoạt chất : Amitriptyline Thuốc chống trầm cảm ba vòng có tác dụng an thần.
Thuốc kê đơn ETC – (Ethical drugs, prescription drugs, Prescription only medicine)
Mã ATC (Anatomical Therapeutic Chemical): N06AA09.
Brand name:
: Amitriptyline, Amilavil,Elavil, Endep, Vanatrip, Amitriptylin 10mg, Amitriptylin 25mg, Amitriptylin 50mg,Europlin 25mg, Trimibelin 10
2. Dạng bào chế – Hàm lượng: Dạng thuốc và hàm lượng
Viên nén: Amitriptylin hydroclorid 10 mg, 25 mg, 50 mg, 75 mg, 100 mg, 150 mg.
Thuốc tiêm: Amitriptylin 10 mg/ml.
► Kịch Bản: PharmogTeam
► Youtube: https://www.youtube.com/c/pharmog
► Facebook: https://www.facebook.com/pharmog/
► Group : Hội những người mê dược lý
► Instagram : https://www.instagram.com/pharmogvn/
► Website: pharmog.com
4. Ứng dụng lâm sàng: 4.1. Chỉ định:
Điều trị trầm cảm, đặc biệt trầm cảm nội sinh (loạn thần hưng trầm cảm). Thuốc ít tác dụng đối với trầm cảm phản ứng.
Điều trị chọn lọc một số trường hợp đái dầm ban đêm ở trẻ em lớn (sau khi đã loại bỏ biến chứng thực thể đường tiết niệu bằng các trắc nghiệm thích hợp).
Đau dây thần kinh.
4.2. Liều dùng – Cách dùng:
Cách dùng :
Liều dùng tùy theo từng trường hợp cụ thể.
Nếu lúc bắt đầu trị liệu không dùng được thuốc theo đường uống, có thể dùng theo đường tiêm bắp nhưng phải chuyển sang dùng đường uống ngay khi có thể được; liều dùng vẫn như trước.
Vị thành niên và người cao tuổi dung nạp thuốc kém.
Phải theo dõi chặt chẽ, phát hiện sớm tình trạng trầm cảm tăng lên, xuất hiện ý đồ tự sát, có thay đổi bất thường về hành vi, nhất là vào lúc bắt đầu trị liệu hoặc mỗi khi thay đổi liều.
Nên bắt đầu với liều thấp và tăng liều từ từ.
Liều dùng:
Liều ban đầu cho người bệnh ngoại trú: 75 mg/ngày, chia ba lần. Nếu cần có thể tăng tới 150 mg/ngày. Cũng có thể uống làm một lần vào lúc đi ngủ (có thể đỡ buồn ngủ lúc ban ngày). Liều tăng được ưu tiên dùng buổi chiều hoặc buổi tối. Tác dụng giải lo và an thần xuất hiện rất sớm, còn tác dụng chống trầm cảm có thể trong vòng 3 – 4 tuần điều trị, thậm chí nhiều tuần sau mới thấy được.
Điều quan trọng là phải tiếp tục điều trị thời gian dài để có thể đánh giá kết quả. Thường ít nhất là 3 tuần. Nếu tình trạng của người bệnh không cải thiện trong vòng 1 tháng, cần đi khám thầy thuốc chuyên khoa.
Liều duy trì ngoại trú: 50 – 100 mg/ngày. Với người bệnh thể trạng tốt, dưới 60 tuổi, liều có thể tăng lên đến 150 mg/ngày, uống một lần vào buổi tối. Tuy nhiên, liều 25 – 40 mg mỗi ngày có thể đủ cho một số người bệnh. Khi đã đạt tác dụng đầy đủ và tình trạng bệnh đã được cải thiện, nên giảm liều xuống đến liều thấp nhất có thể được để duy trì tác dụng. Tiếp tục điều trị duy trì 3 tháng hoặc lâu hơn để giảm khả năng tái phát. Ngừng điều trị cần thực hiện dần từng bước và theo dõi chặt chẽ vì có nguy cơ tái phát.
Đối với người bệnh điều trị tại bệnh viện: Liều ban đầu lên đến 100 mg/ngày, cần thiết có thể tăng dần đến 200 mg/ngày, một số người cần tới 300 mg. Người bệnh cao tuổi và người bệnh trẻ tuổi (thiếu niên) dùng liều thấp hơn, 50 mg/ngày, chia thành liều nhỏ. Phối hợp thuốc tiêm và thuốc viên: Một số trường hợp có thể bắt đầu điều trị bằng thuốc tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch trong khoảng 1 tuần, liều ban đầu: 20 – 30 mg/lần, 4 lần/ngày. Tác dụng do tiêm tỏ ra nhanh hơn uống. Sau đó chuyển sang thuốc uống, càng sớm càng tốt.
Hướng dân điều trị cho trẻ em:
Tình trạng trầm cảm: Không nên dùng thuốc cho trẻ em dưới 12 tuổi (do thiếu kinh nghiệm).
Thiếu niên: Liều ban đầu: 10 mg/lần, 3 lần/ngày và 20 mg lúc đi ngủ. Cần thiết có thể tăng dần liều, tuy nhiên liều thường không vượt quá 100 mg/ngày.
Đái dầm ban đêm ở trẻ lớn: Liều gợi ý cho trẻ 6 – 10 tuổi: 10 – 20 mg uống lúc đi ngủ; trẻ trên 11 tuổi: 25 – 50 mg uống trước khi đi ngủ. Điều trị không được kéo dài quá 3 tháng.
Nguy cơ tự tử vẫn còn trong quá trình điều trị cho đến khi bệnh đã thuyên giảm.
Việc điều trị trầm cảm kèm theo tâm thần phân liệt phải luôn phối hợp với các thuốc an thần kinh vì các thuốc chống trầm cảm 3 vòng có thể làm cho các triệu chứng loạn thần nặng hơn.
Ớ người bệnh hưng – trầm cảm, tăng nguy cơ xảy ra và kéo dài giai đoạn hưng cảm. Đối với người động kinh, cần điều trị chống động kinh một cách phù hợp để bù trừ cho nguy cơ tăng cơn trong quá trình điều trị.
Nguy cơ gây ngủ có thể gây ra tai nạn trong khi lao động, lái xe…
Nhạy cảm rượu có thể gia tăng trong khi điều trị. Nguy cơ tăng nhãn áp cấp tính có thể xảy ra. Nguy cơ sâu răng là biến chứng thông thường khi điều trị thời gian dài.
4.3. Chống chỉ định:
Mẫn cảm với amitriptylin.
Không được dùng đồng thời với các chất ức chế monoaminoxydase. Không dùng trong giai đoạn hồi phục ngay sau nhồi máu cơ tim. Không dùng cho người bị suy gan nặng.
Không dùng cho trẻ dưới 12 tuổi vì tác dụng và độ an toàn chưa được xác định.
4.4 Thận trọng:
Có tiền sử động kinh; bí tiểu tiện và phì đại tuyến tiền liệt; suy giảm chức năng gan; tăng nhãn áp góc hẹp; bệnh tim mạch (loạn nhịp, blốc); bệnh cường giáp hoặc đang điều trị với các thuốc tuyến giáp, u tế bào ưa crom, suy gan.
Người bệnh đã điều trị với các chất ức chế monoamin oxydase, phải ngừng dùng thuốc này ít nhất 14 ngày mới được bắt đầu điều trị bằng amitriptylin.
Dùng các thuốc chống trầm cảm ba vòng cùng với các thuốc kháng cholinergic có thể làm tăng tác dụng kháng cholinergic.
Tác động của thuốc trên người lái xe và vận hành máy móc.
Cần thận trọng khi sử dụng cho các đối tượng lái xe và vận hành máy móc.
4.5 Sử dụng cho phụ nữ có thai và cho con bú: Xếp hạng cảnh báo
AU TGA pregnancy category: C
US FDA pregnancy category: C
Thời kỳ mang thai:
Các thuốc chống trầm cảm ba vòng qua được nhau thai. Amitriptylin, nortriptylin gây an thần và bí tiểu tiện ở trẻ sơ sinh. Tốc độ giảm các triệu chứng từ vài ngày đến vài tuần phụ thuộc vào tốc độ giảm nồng độ thuốc ở trẻ sơ sinh. Vì vậy trong ba tháng cuối thai kỳ, amitriptylin chỉ được dùng với chỉ định nghiêm ngặt, cần cân nhắc lợi ích của người mẹ và nguy cơ cho thai nhi.
Thời kỳ cho con bú:
Amitriptylin và các chất chuyển hóa có hoạt tính được bài tiết vào sữa mẹ với lượng có thể ảnh hưởng đáng kể cho trẻ em ở liều điều trị. Cần phải quyết định ngừng cho con bú hoặc ngừng thuốc, có cân nhắc tầm quan trọng của thuốc đối với người mẹ.
4.6 Tác dụng không mong muốn (ADR):
Các phản ứng có hại chủ yếu biểu hiện tác dụng kháng cholinergic của thuốc. Các tác dụng này thường được kiểm soát bằng giảm liều. Phản ứng có hại hay gặp nhất là an thần quá mức (20%) và rối loạn điều tiết (10%).
Tuần hoàn: Nhịp nhanh, hồi hộp, thay đổi điện tâm đồ (sóng T dẹt hoặc đảo ngược), blốc nhĩ – thất, hạ huyết áp thế đứng.
Nội tiết: Giảm tình dục, liệt dương.
Tiêu hóa: Buồn nôn, táo bón, khô miệng, thay đổi vị giác.
Thần kinh: Mất điều phối.
Mắt: Khó điều tiết, mờ mắt, giãn đồng tử.
Ít gặp, 1/1 000 < ADR < 1/100
Tuần hoàn: Tăng huyết áp. Tiêu hóa: Nôn.
Da: Ngoại ban, phù mặt, phù lưỡi.
Thần kinh: Dị cảm, run.
Tâm thần: Hưng cảm, hưng cảm nhẹ, khó tập trung, lo âu, mất ngủ, ác mộng.
Tiết niệu: Bí tiểu tiện.
Mắt: Tăng nhãn áp. Tai: Ù tai.
Hiếm gặp, ADR < 1/1 000
Toàn thân: Ngất, sốt, phù, chán ăn.
Máu: Mất bạch cầu hạt, tăng bạch cầu ưa eosin, giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu.
Nội tiết: To vú ở đàn ông, sưng tinh hoàn, tăng tiết sữa, giảm bài tiết ADH.
Tiêu hóa: Ỉa chảy, liệt ruột, viêm tuyến mang tai.
Da: Rụng tóc, mày đay, ban xuất huyết, mẫn cảm với ánh sáng.
Gan: Vàng da, tăng transaminase.
Thần kinh: Cơn động kinh, rối loạn vận ngôn, triệu chứng ngoại tháp. Tâm thần: Ảo giác (người bệnh tâm thần phân liệt), tình trạng hoang tưởng (người bệnh cao tuổi).
Thông báo cho Bác sĩ những tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc. 4.7 Hướng dẫn cách xử trí ADR:
Hiếm gặp tăng mệt mỏi, buồn ngủ vào buổi sáng, và cả hạ huyết áp thế đứng vào buổi sáng nếu người bệnh dùng một liều duy nhất vào lúc đi ngủ. Sốt cao đã xảy ra khi sử dụng thuốc chống trầm cảm ba vòng cùng với các thuốc kháng cholinergic hoặc các thuốc an thần kinh, đặc biệt khi thời tiết nóng.
Theo dõi khi ngừng thuốc: Ngừng thuốc đột ngột sau khi điều trị kéo dài có thể gây nhức đầu, buồn nôn, khó chịu toàn thân. Giảm liều từ từ có thể gây ra các triệu chứng thoảng qua như kích thích, kích động, rối loạn giấc ngủ và mơ; các triệu chứng này thường hết trong vòng 2 tuần.
Một số rất ít trường hợp hưng cảm xảy ra từ 2 đến 7 ngày sau khi ngừng điều trị dài ngày với các thuốc chống trầm cảm ba vòng.
4.8 Tương tác với các thuốc khác:
Tương tác giữa các thuốc chống trầm cảm ba vòng với chất ức chế monoamin oxidase là tương tác có tiềm năng gây nguy cơ tử vong. Phối hợp với phenothiazin gây tăng nguy cơ lên cơn động kinh. Các thuốc chống trầm cảm ba vòng ức chế enzym gan, nếu phối hợp với các thuốc chống đông, có nguy cơ tăng tác dụng chống đông lên hơn 300%.
Các hormon sinh dục, thuốc chống thụ thai uống làm tăng khả dụng sinh học của các thuốc chống trầm cảm ba vòng.
Khi dùng physostigmin để đảo ngược tác dụng của các thuốc chống trầm cảm 3 vòng trên hệ thần kinh trung ương (điều trị lú lẫn, hoang tưởng, hôn mê) có thể gây blốc tim, rối loạn dẫn truyền xung động, gây loạn nhịp.
Với levodopa, tác dụng kháng cholinergic của các thuốc chống trầm cảm có thể làm dạ dày đấy thức ăn chậm, do đó làm giảm sinh khả dụng của levodopa.
Cimetidin ức chế chuyển hóa các thuốc chống trầm cảm ba vòng, làm tăng nồng độ các thuốc này trong máu có thể dẫn đến ngộ độc. Clonidin, guanethidin hoặc guanadrel bị giảm tác dụng hạ huyết áp khi sử dụng đồng thời với các thuốc chống trầm cảm 3 vòng. Sử dụng đồng thời với các thuốc chống trầm cảm ba vòng và các thuốc cường giao cảm làm tăng tác dụng trên tim mạch có thể dẫn đến loạn nhịp, nhịp nhanh, tăng huyết áp nặng, hoặc sốt cao.
Amitriptylin làm tăng tác dụng tụt huyết áp thế đứng của các thuốc hạ huyết áp: Acetazolamid, amilorid, ether, furosemid, halothan, hydralazin, hydroclorothiazid, ketamin, methyldopa, natri nitroprusiat, nitơ oxyd, reserpin, spironolacton, thiopental.
Các thuốc làm tăng nguy cơ gây loạn nhịp của amitriptylin: Artemether phối hợp với lumefantrin, clorphenamin, epinephrin, ether, haloperidol, halothan, ketamin, nitơ oxyd, procainamid, quinidin, thiopenthal.
Các thuốc làm tăng tác dụng phụ của amitriptylin: Các thuốc kháng muscarin (atropin, biperiden), các thuốc ức chế thần kinh trung ương (clorpheniramin, clorpromazin, fluphenazin).
Các thuốc làm tăng tác dụng an thần của amitriptylin: Clonazepam, cloral hydrat, clorpheniramin, codein, diazepam, morphin, pethidin, rượu.
Các thuốc làm tăng nồng độ amitriptylin trong huyết tương, làm tăng độc tính của amitriptylin: Clorpromazin, cimetidin, fluphenazin, haloperidol, ritonavir, thuốc tránh thai dạng uống, verapamil.
Các thuốc làm giảm nồng độ amitriptylin trong huyết tương, do đó làm giảm tác dụng chống trầm cảm: Carbamazepin, phenobarbital, phenytoin, rifampicin.
Các thuốc bị giảm tác dụng khi dùng đồng thời với amitriptylin: Glycerin trinitrat, isosorbid dinitrat.
Amitriptylin làm giảm tác dụng của các thuốc chống động kinh (do làm giảm ngưỡng co giật) như acid valproic, carbamazepin, ethosuxinid, phenobarbital, phenytoin.
4.9 Quá liều và xử trí:
Triệu chứng: Ngủ gà, lú lẫn, co giật (động kinh), mất tập trung, giãn đồng tử, rối loạn nhịp tim, ảo giác, kích động, thở nông, khó thở, yếu mệt, nôn, khô miệng.
Xử trí: Chủ yếu là điều trị triệu chứng và hỗ trợ, bao gồm:
Rửa dạ dày: Dùng than hoạt tính dưới dạng bùn nhiều lần;
Duy trì chức năng hô hấp, tuần hoàn và thân nhiệt;
Theo dõi chức năng tim mạch, ghi điện tâm đồ, theo dõi chặt chẽ nhịp tim (ít nhất 5 ngày);
Điều trị loạn nhịp: Dùng lidocain, kiềm hóa máu tới pH 7,4 – 7,5 bằng natri hydrocarbonat tiêm tĩnh mạch.
Xử trí co giật bằng cách dùng diazepam, lorazépam theo đường tĩnh mạch. Không dùng phenytoin vì làm tăng nguy cơ loạn nhịp tim. Thấm phân màng bụng, lọc máu, lợi niệu, không có tác dụng trong xử trí ngộ độc thuốc chống trầm cảm ba vòng.
Vài ngày sau khi có vẻ hồi phục có thể xuất hiện các hội chứng nặng:
Mê sảng, lú lẫn, giãy giụa, hoang tưởng, mất ý thức, co giật, rung giật cơ, tăng phản xạ, giảm thân nhiệt, huyết áp thấp, suy hô hấp và tim mạch, loạn nhịp tim nặng có thể nguy hiểm đến tính mạng. Cần theo dõi và xử trí kịp thời.
[XEM TẠI ĐÂY] 5.2. Dược động học:
Amitriptylin được hấp thu nhanh chóng và hoàn toàn qua đường tiêm và đường uống (sau khi tiêm bắp 5 – 10 phút và sau khi uống 30 – 60 phút). Nồng độ đỉnh trong huyết tương xuất hiện 2 – 12 giờ sau khi uống hoặc tiêm tĩnh mạch. Amitriptylin phân bố rộng khắp cơ thể và liên kết nhiều với protein huyết tương và mô. Với liều thông thường, 30 – 50% thuốc đào thải trong vòng 24 giờ. Amitriptylin chuyển hóa bằng cách khử N-methyl và hydroxyl hóa. Trên thực tế hầu hết liều thuốc được đào thải dưới dạng các chất chuyển hóa liên hợp glucuronid hoặc sulfat. Có rất ít amitriptylin ở dạng không chuyển hóa được đào thải qua nước tiểu, qua mật và theo phân. Có sự khác nhau nhiều về nồng độ thuốc trong huyết tương giữa các cá thể sau khi uống một liều thông thường nên nửa đời trong huyết tương và nửa đời thải trừ của thuốc thay đổi nhiều (từ 9 đến 50 giờ) giữa các cá thể. Amitriptylin không gây nghiện.
5.3 Giải thích:
Chưa có thông tin. Đang cập nhật.
5.4 Thay thế thuốc :
Chưa có thông tin. Đang cập nhật.
6.2. Tương kỵ :
Không được pha loãng thuốc với nước ép bưởi hoặc đồ uống có chứa carbonat.
6.3. Bảo quản:
Thuốc tiêm amitriptylin hydroclorid phải bảo quản ở nhiệt độ dưới 40 oC, tốt nhất là 15 – 30 oC; tránh để đông lạnh, tránh ánh sáng vì có thể tạo thành ceton và tủa nếu để tiếp xúc với ánh sáng. Dạng viên nén amitriptylin hydroclorid phải bảo quản trong đồ đựng kín ở nhiệt độ 15 – 30 oC. Tránh tiếp xúc với nhiệt độ trên 30 o C.
6.4. Thông tin khác :
Không có.
Thuốc Chống Trầm Cảm Cho Trẻ Em
Phàn nàn về trầm cảm đã trở thành mốt. Chúng tôi thường nghe từ người khác rằng anh ấy bị trầm cảm. Hơn nữa, bởi điều này có nghĩa là bất cứ điều gì – từ căng thẳng thông thường và tâm trạng xấu đến lo lắng gia tăng. Thông thường cha mẹ cho rằng con họ bị trầm cảm và đang tìm kiếm một phương pháp chữa trị hiệu quả cho nó. Chúng ta hãy cố gắng hiểu trầm cảm thực sự của trẻ là gì và mức độ an toàn khi điều trị bằng thuốc chống trầm cảm.
Trầm cảm, bao gồm cả trẻ em, là một tình trạng tâm lý đau đớn. Theo thống kê, trầm cảm xảy ra ở gần 40% trẻ em và thanh thiếu niên ngày nay, nhưng đó chỉ là tạm thời, và theo quy luật, rút lui. Nếu chúng ta nói về trầm cảm thực tế nhất, thì nó thực sự ảnh hưởng đến khoảng 3% trẻ em và 8% thanh thiếu niên.
Nếu bệnh này không được điều trị trong thời thơ ấu, nó có thể biến thành những bất thường nghiêm trọng về tinh thần, trẻ bắt đầu thực hành hành vi lệch lạc. Thường thì họ tự sát. Đôi khi những nỗ lực này kết thúc trong cái chết của một đứa trẻ. Sự phát triển của trầm cảm và xu hướng tự nhiên của thanh thiếu niên đối với họ được sử dụng tích cực bởi các nhà tổ chức của cái gọi là nhóm tử vong của Hồi, trên Internet.
Chẩn đoán “trầm cảm lâm sàng” chỉ có thể là một bác sĩ tâm thần. Nhưng bất kỳ người mẹ nào cũng có thể cho biết sự khác biệt giữa một căn bệnh thực sự và trạng thái trầm cảm.
Trước đây, các nhà khoa học tin rằng trẻ em không bị trầm cảm. Những khám phá hiện đại trong lĩnh vực tâm thần học và tâm lý học nói lên điều ngược lại.
Ở trẻ sơ sinh và trẻ em đến 3 tuổi trầm cảm có thể là do thiếu oxy thai nhicác yếu tố bất lợi khác trong thai kỳ, ở một mức độ nhất định trầm cảm có thể được di truyền.
Trong vụn, nó có thể được nhận ra bởi hành vi không điển hình. Trong khi karapuzy học cách mỉm cười, gầm rú và khám phá thế giới, trẻ em bị trầm cảm lâm sàng tồn tại “theo chu kỳ” – những giai đoạn khóc xen kẽ với những giai đoạn lãnh đạm hoàn toàn. Em bé không tăng cân tốt, ngay cả khi cho ăn thường xuyên và đủ.
Hầu như tất cả những lúc em bé không hét lên, anh nằm với đôi mắt mở to, ánh mắt không có ý nghĩa. Những đứa trẻ ốm yếu không thể hiện sự quan tâm với những chiếc lục lạc, đồ chơi sáng chói, đừng cố gắng theo dõi chúng bằng mắt và đưa tay ra. Trẻ lớn hơn (từ 10-12 tháng tuổi) có thể nhịp nhàng lắc lư trong giường cũi từ bên này sang bên kia, không đáp ứng với những nỗ lực của cha mẹ để liên lạc.
Trẻ em bị trầm cảm, nhiều về sau bắt đầu ngồi xuống, đi lại, theo nhiều cách bị tụt lại phía sau trong sự phát triển.
Ở trẻ em từ 3 đến 6 tuổi trầm cảm lâm sàng biểu hiện khác nhau. Đây là sự bất ổn của cảm xúc.
Đứa trẻ đang tích cực tìm kiếm tình yêu và tình cảm, sau đó thay đổi đáng kể tâm trạng và bắt đầu thể hiện sự tức giận, hung hăng, cáu kỉnh. Ở tuổi này, trẻ em bị trầm cảm hiếm khi được rút. Trong hành vi của chúng, các bậc cha mẹ chu đáo cũng có thể nhận thấy một chu kỳ Căng thẳng nhất định – những giai đoạn hưng phấn và phấn khích quá mức nhường chỗ cho một tiếng khóc lặng lẽ. Dần dần, đứa trẻ dừng chơi, thể hiện sự thích thú với phim hoạt hình và truyện cổ tích. Họ có thể bắt đầu mờ dần các kỹ năng vệ sinh.
Ở tuổi tiểu học (từ 7 đến 12 tuổi) Trầm cảm có thể tự biểu hiện theo những cách khác nhau. Tôn trọng bệnh luôn đi kèm với giấc ngủ và rối loạn tiêu hóa. Trẻ em trở nên cô lập, cô lập, từ chối giao tiếp và chơi. Họ có lòng tự trọng thấp, mức độ lo lắng cao.
Bắt đầu từ 7-8 tuổi đứa trẻ có thể nói về lòng tự trọng của mình. Thông thường với trầm cảm lâm sàng, trẻ bắt đầu bị đái dầm, liên tục cắn móng tay và không có hứng thú học tập.
Ở tuổi thiếu niên (12-15 tuổi) trầm cảm lâm sàng thường được ngụy trang thành nhiều ám ảnh học đường. Đứa trẻ có trọng lượng cơ thể giảm, anh ta khó giao tiếp, anh ta chán nản và chán nản.
Trầm cảm có thể bẫy bất cứ ai, có nguy cơ, trẻ em từ các gia đình rối loạn, gia đình mà cha mẹ và trẻ em đã trải qua căng thẳng nghiêm trọng gần đây đã ly dị.
Vì vậy, bạn có thể nghĩ về trầm cảm nếu con bạn có:
Có sự suy yếu lợi ích trong bất kỳ hoạt động.
Anh ta thường bị kích động hoặc ức chế, và điều này được thể hiện ở cấp độ vật lý (các chuyển động sắc nét, hỗn loạn được thay thế bằng các chuyển động chậm chạp).
Anh gần như không thể tập trung chú ý, trí nhớ yếu.
Anh ấy hiếu chiến và thường nói về sự mệt mỏi.
Trong vòng một tháng, một đứa trẻ đã giảm hơn 5% trọng lượng cơ thể mà không có lý do rõ ràng.
Nếu bạn nhận thấy những triệu chứng này, đó không phải là lý do để ngay lập tức viết ra những đứa trẻ cho người bệnh. Đây chỉ là một lý do để đến gặp bác sĩ tâm thần trẻ em hoặc bác sĩ thần kinh để khám phá vấn đề và bắt đầu điều trị kịp thời nếu cần thiết.
Điều trị trầm cảm lâm sàng ở trẻ em bao gồm liệu pháp tâm lý và thuốc chống trầm cảm. Hơn nữa, các bác sĩ thường cố gắng kê toa thuốc hướng tâm thần, thay vì tránh chúng.
Cách tiếp cận truyền thống cho đến nay là các bác sĩ cố gắng chơi nó an toàn khi nói đến sức khỏe và sự an toàn của trẻ. Tự kê đơn thuốc chống trầm cảm cho bản thân hoặc em bé của bạn đang đe dọa tính mạng! Để chọn đúng loại thuốc sẽ giúp một chuyên gia với các đặc điểm cá nhân của trẻ.
Không sử dụng thuốc chống trầm cảm trong mọi trường hợp mà không cần xuất viện bác sĩ.
Thuốc chống trầm cảm là thuốc hướng tâm thần, ơn gọi chính của nó là khôi phục lại sự cân bằng của “hormone hạnh phúc” và “hormone căng thẳng” trong cơ thể.
Happy Happy bao gồm dopamine và seratonin. Hormone căng thẳng (cơn thịnh nộ) được gọi là norepinephrine. Thuốc chống trầm cảm làm giảm căng thẳng và kích thích sản xuất seratonin và dopamine. Đó là con số nhỏ của họ mà các bác sĩ coi là nguyên nhân chính của trầm cảm.
Sự xảo quyệt của thuốc chống trầm cảm là hơn một nửa số bệnh nhân trẻ tuổi hoàn toàn chống lại họ, tức là không phản hồi. Thông thường nó trở nên rõ ràng sau hai tuần dùng thuốc. Sau đó bác sĩ thay thuốc chống trầm cảm. Nếu không có tác dụng tích cực trở lại, thuốc sẽ được thay đổi một lần nữa.
Một số thuốc chống trầm cảm, ngoài tác dụng lên các thụ thể chịu trách nhiệm kích thích sản xuất hoóc môn hạnh phúc, còn đồng thời tác động lên các thụ thể opioid của hệ thần kinh. Điều này gây ra một hiệu ứng ma túy nhẹ, và, do đó, nghiện. Sau khi ngừng thuốc có thể bắt đầu “phá vỡ”.
Ngoài ra, các bác sĩ lưu ý một điểm trừ lớn khác trong việc dùng thuốc chống trầm cảm – làm tăng khả năng tổn thương gan độc hại.
Tất cả các thuốc chống trầm cảm hiện có được chia thành nhiều loại:
Thuốc chống trầm cảm ba vòng. Không thích hợp để điều trị cho trẻ em, vì chúng có tác dụng phụ rất nghiêm trọng, và ở mức độ sinh lý có thể dẫn đến khối tim.
Các chất ức chế monoamin oxydase. Cũng là loại thuốc hướng tâm thần khá mạnh mà trẻ cố gắng không kê đơn. Chúng bao gồm “Traniltsipromin”, Pyrazidol, Fenelzin, Moclobemide.
Thuốc chống trầm cảm là không điển hình. Những loại thuốc này trong một số trường hợp có thể được kê cho trẻ em và thanh thiếu niên, nhưng chúng nên được đưa vào bệnh viện dưới sự giám sát y tế nghiêm ngặt.
Thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc. Đây là những loại thuốc hướng tâm thần phù hợp nhất cho một sinh vật đang phát triển. Nổi tiếng nhất hiện nay và tương đối an toàn.
Thuốc hướng tâm thần cho trẻ em thường được kê đơn từ sáu tuổi. Trong những trường hợp hiếm hoi, chúng được sử dụng cho thanh thiếu niên trẻ tuổi, nhưng quyết định như vậy của bác sĩ nên hợp lý hơn. Các hướng dẫn về thuốc chống trầm cảm như một chống chỉ định hầu như luôn luôn chỉ ra tuổi của trẻ em lên đến 18 tuổi, đó là lý do tại sao không thể làm mà không hỏi ý kiến bác sĩ.
Hãy xem xét một số loại thuốc thường được sử dụng trong điều trị rối loạn tâm thần ở trẻ em.
Nổi tiếng nhất trong số các thuốc chống trầm cảm “trẻ em”. Có sẵn ở dạng thuốc viên. Liều khởi đầu bắt đầu từ 20 mg mỗi ngày một lần vào buổi sáng. Liều có thể tăng sau 4 tuần. Danh sách các tác dụng phụ khá dài – từ chóng mặt đến động kinh. Hội chứng hủy kéo dài từ 1 đến 7 ngày.
Một loại thuốc rất phổ biến trên toàn thế giới. Được sử dụng để điều trị chứng trầm cảm và lo lắng thời thơ ấu, một số nỗi ám ảnh. Theo quy định, liều ban đầu cho bệnh nhân trên 12 tuổi là khoảng 25-40 mg. Viên nén được thực hiện một lần một ngày, vào buổi sáng hoặc trước khi đi ngủ. Liều tối đa hàng ngày là 200 mg. Hội chứng rút tiền với liều giảm dần kéo dài 1-2 tuần.
Những bảng này không được khuyến khích cho trẻ em. Thanh thiếu niên được chỉ định theo quyết định của bác sĩ tham dự. Liều dùng thông thường là 1 viên mỗi ngày với bữa ăn.
Bác sĩ chống trầm cảm này có thể kê đơn cho một bệnh nhân trẻ tuổi nếu anh ta đã tròn 8 tuổi. Liều hàng ngày bắt đầu với 50 mg và có thể tăng dần khi không đủ tác dụng. Quá trình điều trị khá dài – sáu tháng. Danh sách các tác dụng phụ của Cameron rất tuyệt vời, trong số đó là đau đầu, thờ ơ, sợ hãi, làm tăng sự lo lắng và thay đổi trọng lượng cơ thể.
Ngoài ra còn có các chế phẩm thảo dược có tác dụng chống trầm cảm:
Axit amin, giúp cải thiện đáng kể các phản ứng hóa học xảy ra trong não. Thuốc được kê cho trẻ em trên 3 tuổi uống 3 lần một ngày. Trẻ em dưới 3 tuổi – nửa viên ba lần một ngày.
Đây là một chiết xuất của Hypericum. Mang nó cho trẻ em trên 12 tuổi cần 1 viên ba lần một ngày. Trẻ em từ 6 đến 12 tuổi – dưới sự giám sát của các chuyên gia, 1-2 viên hai lần một ngày, trừ buổi tối. Trẻ em dưới sáu tuổi, chiết xuất Hypericum không được quy định.
Bạn có thể nhận con từ 12 tuổi. Đây là những chiết xuất của các loại thảo mộc khô (St. John’s wort, chanh, v.v.). Nó được quy định cho lo lắng, rối loạn giấc ngủ, suy nhược thần kinh.
Một số loại thuốc vi lượng đồng căn hoặc Glycine “.
Một loại thuốc để điều trị trầm cảm và các rối loạn tâm thần khác ở trẻ em sẽ không tạo ra nhiều khác biệt.
Yêu cầu điều trị toàn diện.
Trước hết, bác sĩ sẽ tổ chức một cuộc trò chuyện với cha mẹ. Anh ta sẽ cố gắng thuyết phục họ về sự cần thiết và biện minh của việc dùng thuốc hướng thần. Anh ta sẽ giải thích cách dùng thuốc đúng cách để làm dịu tối đa “hội chứng cai thuốc” và tránh tác dụng phụ.
Sau đó, chuyên gia sẽ chỉ định một liệu pháp tâm lý trị liệu, trong đó hành vi và cách suy nghĩ của trẻ con sẽ được sửa chữa, và việc sửa các lỗi của gia đình Hồi sẽ được sửa chữa – mối quan hệ giữa các hộ gia đình sẽ được sửa chữa.
Chuyên gia trị liệu tâm lý sẽ dạy trẻ tạo động lực học tập và giao tiếp, đồng thời giải quyết hiệu quả các tình huống vấn đề. Nếu bệnh nhân vẫn còn quá nhỏ, anh ta sẽ được chỉ định trị liệu chơi.
Nhiều bác sĩ tin rằng thuốc chống trầm cảm hoàn toàn giúp đối phó với các rối loạn tâm thần ở trẻ em và thanh thiếu niên. Mặc dù vậy Tác dụng chi tiết của thuốc hướng tâm thần đối với cơ thể trẻ con vẫn chưa được hiểu rõ. Một cảnh báo về điều này là trong các hướng dẫn cho từng loại thuốc chống trầm cảm.
Một số nhà khoa học có xu hướng tin rằng những loại thuốc này phá hủy cấu trúc tâm lý của trẻ mạnh hơn căn bệnh hiện có.Ví dụ, một số thuốc chống trầm cảm từ lâu đã trở thành loại thuốc “để bàn” cho trẻ em ở Anh, Mỹ. Việc sử dụng chúng ở những nước này cũng tự nhiên như uống vitamin.
Đồng thời, ngày càng có nhiều vụ tự tử của trẻ em, các trường hợp gây hấn và tàn ác lạ thường, khi một học sinh bắn cả một lớp và giáo viên chẳng hạn. Những người phản đối việc điều trị cho trẻ em bằng thuốc chống trầm cảm cho rằng có mối liên hệ trực tiếp giữa hai sự thật này.
Để biết nguyên nhân trầm cảm ở trẻ em và khi cha mẹ có thể tự giúp trẻ, hãy xem video tiếp theo.
Thuốc Chống Trầm Cảm Không An Toàn Đối Với Trẻ Em?
Ngày càng có nhiều trẻ em bị mắc bệnh tâm lý rối loạn tâm thần, trầm cảm, tuy nhiên các loại thuốc trên thị trường hiện nay hầu hết đều không có tác dụng với thanh thiếu niên và một số được đánh giá là không an toàn.
Đây là báo cáo mới nhất của các nhà khoa học được đăng tải trên tạp chí khoa học Lancet. Hầu hết các loại thuốc chống trầm cảm đang được tiêu thụ trên thị trường hiện nay đều có lời cảnh báo tránh sử dụng cho trẻ em hoặc chỉ sử dụng khi có sự chỉ dẫn của bác sĩ. Hiện nay, việc ngày càng có nhiều trẻ em mắc bệnh trầm cảm, rồi loạn tâm thần do những áp lực về gia đình, học đường, xã hội…. Hiện nay có khoảng 3% trẻ em trên thế giới trong độ tuổi từ sáu đến 12 năm và khoảng 6 % thanh thiếu niên tuổi từ 13 đến 18 bị mắc chứng bệnh này tuy nhiên các nhà khoa học cho biết thuốc chống trầm cảm lại không có tác dụng đối với những đối tượng này hoặc thiếu an toàn. Chính vì thế các bác sĩ thường ít khi kê thuốc chống trầm cảm cho bệnh nhân trẻ tuổi vì một số thuốc có thể gây hại cho bộ não đang phát triển của họ.
Nghiên cứu cho thấy các loại thuốc trầm cảm hầu như không có tác dụng thậm chí là thiếu an toàn đối với trẻ emTiến sĩ Andrea Cipriani của Đại học Oxford, một trong những đồng tác giả nghiên cứu cho biết ông cùng với các đồng nghiệp của mình đã tiến hành khảo sát hơn 5000 nghìn bệnh nhân đến từ các quốc gia khác nhau, đồng thời thu thập thêm dữ liệu của 22 công ty dược phẩm với 14 loại thuốc chống trầm cảm phổ hiến hiện nay với 34 thử nghiệm. Trong số đó chỉ có 1 loại thuốc duy nhất là có tác dụng thật sự đối với trẻ em, số còn lại đều được đánh giá là có mức hiệu quả thấp hoặc rất thấp. Trong số các phát hiện về loại thuốc cá nhân, các nhà nghiên cứu tìm thấy rằng thuốc Sensoval ít hiệu quả hơn bảy thuốc chống trầm cảm khác. Các loại thuốc Tofranil, Effexor và Cymbalta dẫn đến nhiều tác dụng phụ nhất.
Các nhà khoa học cũng cảnh báo rằng, thay vì việc lạm dụng thuốc trầm cảm cho trẻ em hoặc những người trẻ tuổi. Cách tốt nhất để chữa bệnh cho họ chính là thông qua phương pháp tiếp cận, thay đổi hành vi, sử dụng các liệu pháp trị liệu tinh thần không dùng thuốc như hội họa, âm nhạc, trò chuyện…, hạn chế kê đơn thuốc (kể cả với người trường thành” nếu họ không thực sự bắt buộc phải dùng.
Các bác sĩ tâm lý cũng cho biết rằng ở độ tuổi thanh thiếu niên trẻ em rất dễ nhạy cảm và thường chưa có nhiều kinh nghiệm để xử lý các vấn đề rắc rối, cân bằng cảm xúc của bản thân chính vì vậy bên cạnh là người giám hộ nuôi dưỡng, các bậc phụ huynh hãy trở thành “người bạn đồng hành” của con, không nên gây sức ép lên trẻ quá nhiều. Cha mẹ nên quan tâm và trò chuyện với con nhiều hơn, chú ý những thay đổi của trẻ, hãy thường xuyên cho trẻ tham gia các hoạt động bên ngoài, hoạt động cộng đồng như dẫn bé đi chơi, đi nhà sách, xem phim, khám phá thiên nhiên, tham gia các hoạt động thể dục thể thao… để trẻ được năng động hơn…
Cập nhật thông tin chi tiết về Ngày Càng Nhiều Người Mua Thuốc Chống Trầm Cảm trên website Sdbd.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!