Bạn đang xem bài viết Hạn Chế Tối Đa Sử Dụng Thuốc Kháng Sinh được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Sdbd.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Dân gian có câu “Đói ăn rau, đau uống thuốc”. Nhiều người có thói quen sử dụng thuốc ngay khi có những biểu hiện bất thường về sức khỏe. Trẻ em có các triệu chứng sốt, ho, sổ mũi thì được cho uống thuốc kháng sinh ngay. Nhiều tiệm thuốc dễ dàng kê thuốc kháng sinh cho người bệnh mà không cần khám chỉ định và hệ quả là nhờn thuốc và làm tăng sức công phá của bệnh
Năm 2011, nhân Ngày Sức khỏe Thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã phổ biến khẩu hiệu: “Hãy chống lại tình trạng kháng thuốc – Không hành động hôm nay, không chữa trị được ngày mai”.
Năm 2014, khẩu hiệu trên đã được nhắc lại, nhằm khuyến cáo về tình trạng lạm dụng thuốc kháng sinh khi bất kì có biểu hiện bệnh nào sẽ kê kháng sinh để uống, dùng kháng sinh không đúng bệnh, không đúng liều, không đủ thời gian, tùy tiện…, hệ lụy khiến bệnh nặng hơn và gây khó khăn cho chữa bệnh sau này
Trò chuyện về vấn đề này, BS Nguyễn Trí Đoàn, Giám đốc Y khoa Phòng khám quốc tế Victoria Healthcare Mỹ Mỹ chia sẻ:
Thuốc kháng sinh ngoài tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh thì còn tiêu diệt cả những vi khuẩn có lợi. Vì vậy, nếu sử dụng kháng sinh quá nhiều thì cơ thể sẽ dễ bị các bệnh nhiễm khuẩn hơn.
Kháng sinh sử dụng bừa bãi thường gây tác dụng phụ như: tiêu chảy, ói, dị ứng, sốc phản vệ thậm chí tử vong. Nguy hiểm hơn, lạm dụng kháng sinh dễ dẫn đến đề kháng kháng sinh (hay còn gọi là lờn kháng sinh), về sau khi cần sử dụng kháng sinh để tiêu diệt vi trùng gây bệnh thì nó không còn tác dụng nữa, người bệnh sẽ dễ bị nguy cơ bệnh nặng hơn và có thể gây tử vong.
* Phải chăng đó là lý do vì sao càng uống nhiều kháng sinh thì càng dễ mắc bệnh và tái bệnh?
– Đúng vậy, dễ thấy nhất là ở trẻ em. Những trẻ uống kháng sinh nhiều thì sẽ rất dễ mắc bệnh nhiễm khuẩn, trong khi những bệnh này thường là do siêu vi và “thuốc” điều trị tốt nhất là thời gian (chờ bệnh tự khỏi). Có nhiều triệu chứng bệnh ở trẻ là phản ứng có lợi để giúp chống lại nhiễm trùng.
Chẳng hạn như chứng ho ở trẻ. Ho không phải là bệnh mà là cơ chế giúp tống vi trùng, virus, chất nhầy ra khỏi phế quản, giúp bảo vệ họng và phổi. Ho có thể là triệu chứng của cảm lạnh thông thường hoặc là biểu hiện của nhiễm khuẩn đường hô hấp như: viêm mũi họng, viêm thanh quản, viêm phế quản, viêm tiêu phế quản hoặc viêm phổi.
Khi bé ho do cảm lạnh kèm sổ mũi, không sốt hoặc sốt nhẹ nhưng bé vẫn ăn uống, chơi đùa bình thường, không nôn ói thì cha mẹ chỉ cần chăm sóc bé bằng cách cho bé uống nhiều nước, ăn trái cây tươi, ăn cháo hoặc soup và theo dõi nhiệt độ cơ thể của con. Cha mẹ không nên tùy tiện cho con uống thuốc ho vì thuốc này có thể gây hại cho trẻ em.
Cách đây 10 năm, thế giới đã khuyến cáo không sử dụng thuốc ho cho trẻ dưới 2 tuổi vì có thể bị suy hô hấp, dễ bị viêm phổi, lừ đừ và tăng nguy cơ tử vong. Sau đó, Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) khuyến cáo là không dùng thuốc ho cho trẻ dưới 6 tuổi.
Tiếc thay, ở Việt Nam, việc mua thuốc ho quá dễ dàng, các phòng khám còn kê toa thuốc ho cho trẻ em cũng rất phổ biến. Tương tự như thuốc ho, thuốc hạ sốt cho trẻ em được dùng rất nhiều, thậm chí bác sĩ còn khuyến khích mua sẵn thuốc sốt ở trong nhà để khi trẻ sốt thì cho uống ngay…
* Thuốc hạ sốt cho trẻ em vì sao không nên dùng nhiều, thưa bác sĩ?
– Chúng ta nên hiểu rằng sốt không phải là bệnh mà chỉ là một phản ứng bình thường của cơ thể khi bị nhiễm khuẩn. Sốt giúp cơ thể chống lại nhiễm trùng bằng cách khởi động hệ miễn dịch của cơ thể.
Ở trẻ em, hầu hết các cơn sốt từ 37,8 đến 40oC đều không nguy hiểm, phần lớn là từ các bệnh do virus như cảm lạnh hoặc cảm cúm. Một vài nguyên nhân khác có thể là do bệnh từ vi khuẩn như viêm họng do liên cầu nhóm A hoặc nhiễm trùng đường tiểu.
Hầu hết các cơn sốt do virus sẽ kéo dài khoảng hai đến ba ngày. Tổn thương não xuất hiện chỉ khi nhiệt độ cơ thể cao hơn 42oC, nhưng rất may mắn là bộ ổn định nhiệt của não bộ sẽ giữ những cơn sốt dưới mức nhiệt độ này cho dù không uống thuốc hạ sốt.
Vì vậy, khi trẻ sốt, cha mẹ chỉ cần khuyến khích con uống nhiều nước và nghỉ ngơi chứ không nên dùng thuốc hạ sốt liên tục. Trẻ chỉ thật sự cần dùng đến thuốc hạ sốt khi chúng quấy, trằn trọc khó chịu, không ngủ được. Nếu trẻ con đang ngủ yên giấc thì ba mẹ không nên đánh thức trẻ dậy để cho uống thuốc.
– Cách hạn chế tác hại của kháng sinh là ngưng sử dụng ngay bây giờ nếu như không cần thiết. Tôi hay nói bác sĩ nhi muốn chữa bệnh cho trẻ con thì cần phải điều trị cho cha mẹ của chúng trước là vậy.
Ngưng sử dụng kháng sinh càng sớm thì cơ thể trẻ sẽ càng có nhiều thời gian được “huấn luyện” về miễn dịch. Từ đó, sức đề kháng của trẻ sẽ dần khỏe mạnh trở lại, trẻ sẽ ít bị những bệnh nhiễm khuẩn hơn hoặc nếu có mắc bệnh thì cũng dễ dàng “lướt” qua bệnh.
* Có thể thấy kháng sinh có tác hại vô cùng nghiêm trọng đến trẻ nhỏ. Vậy đối với người lớn thì sao, xin bác sĩ giải thích rõ hơn?
– Ở người lớn, kháng sinh cũng có những tác hại nghiêm trọng không kém, nhất là khả năng kháng thuốc kháng sinh, gây khó khăn trong việc điều trị nhiều loại bệnh. Hầu hết các bệnh do virus mà chúng ta mắc phải thì không có loại kháng sinh nào trị được.
Có thể kể đến là 90% các cơn ho, viêm thanh quản, viêm phế quản, 90% các triệu chứng tiêu chảy… Chỉ một số bệnh cần sử dụng kháng sinh trong điều trị như: nhiễm trùng đường tiểu, viêm amygdale do liên cầu khuẩn nhóm A (muốn biết dạng amygdale loại này thì phải làm xét nghiệm phết họng).
Các trường hợp sốt do siêu vi, cảm cúm… ở người lớn thì chúng ta chỉ cần nghỉ ngơi, uống nhiều nước và “chờ” hết bệnh.
* Bệnh nhân cảm cúm có nên uống nhiều nước cam, chanh để bổ sung vitamin C như cách nhiều bác sĩ khuyến khích không?
– Nhiều nghiên cứu mới đây cho thấy rằng việc uống thêm vitamin C không giúp tăng sức đề kháng, không có tác dụng phòng ngừa hay giúp giảm nhanh cơn cảm cúm như chúng ta đã biết cách đây vài chục năm, thậm chí dùng vitamin C liều cao còn có thể gây tiêu chảy.
Có thể thấy rằng kiến thức y khoa thế giới thay đổi liên tục, những điều hôm nay chúng ta đang áp dụng thì chưa chắc đúng vào ngày mai khi có những bằng chứng y khoa mới. Bác sĩ có nhiệm vụ thường xuyên cập nhật những kiến thức, thông tin mới và khi đã hiểu biết thì cần áp dụng vào khám và điều trị cho bệnh nhân.
Tôi biết có những bác sĩ thường xuyên cập nhật cái mới, cái đúng nhưng không thể thực hiện vì nhiều nguyên nhân. Dù thế nào đi nữa, tôi vẫn muốn khẳng định rằng xu hướng chung của thế giới hiện nay là cần hạn chế tối đa sử dụng thuốc men trong điều trị, nhất là kháng sinh.
* Cảm ơn bác sĩ về buổi trò chuyện.
Làm Sao Để Hạn Chế Tối Đa Tác Hại Của Thuốc Uốn Nhuộm Khi Làm Tóc?
Tóc uốn, tóc nhuộm thì đẹp đấy, thế nhưng đằng sau cái đẹp, là những nỗi lo khi tóc đứt gãy, chẻ ngọn và rụng hàng loạt. Nguyên nhân là do tóc chịu tổn thương nặng nề do hóa chất uốn, nhuộm, một điều không thể tránh khỏi khi bạn muốn làm đẹp cho mái tóc của mình.
Có nhiều chị em chịu đựng sự tổn thương này để có được vẻ ngoài đẹp đẽ, sau đó lại hối hả lao vào những kế hoạch chăm sóc ngay sau khi tạo kiểu, mà không hề hay biết chúng ta hoàn toàn có thể hạn chế được sự tổn thương ngay trong khi uốn, nhuộm.
Dưỡng tóc 1 tháng trước khi uốn, nhuộm
Đây là bước mà rất nhiều bạn bỏ qua, vì đã có thợ tư vấn khi đến salon rồi. Thế nhưng, bạn đâu rõ các loại thuốc này khác nhau như thế nào, chất lượng ra sao, và thường chỉ quan niệm rằng gói dịch vụ uốn, nhuộm giá cao thì sẽ dùng loại thuốc tốt hơn.
Hãy tự yêu lấy mái tóc và sức khỏe của mình. Hãy tìm hiểu ngay các dòng thuốc uốn chất lượng hiện nay, nếu cần thiết thì tự mua và đem đến salon nhờ thợ làm cho. Hiện nay, xu hướng mỹ phẩm Organic rất thịnh hành tại Việt Nam, và các loại thuốc uốn, nhuộm Organic cũng được nhiều salon tóc ưa chuộng, do chúng lành tính và có khả năng uốn hồi sinh trên nền tóc hư tổn, tóc nát.
Hiện nay, phương pháp uốn lạnh cũng được khá nhiều người ưa chuộng, vì thời gian uốn ngắn, chỉ trong vòng 15-30 phút, không dùng nhiệt nên ít gây hư tổn cho tóc như uốn nóng. Uốn lạnh thường giữ nếp khoảng 1, 2 tháng, tùy theo từng sản phẩm, đủ để bạn thỏa mãn và đổi kiểu tóc mới.
Về nhuộm tóc, chúng tôi cũng khuyến khích bạn nên dùng những nguyên liệu thiên nhiên như cây lá móng, cà rốt, cà phê, điều nhuộm đỏ,… sẽ lành tính hơn rất nhiều. Hoặc bạn cũng có thể sử dụng phấn nhuộm nếu muốn đổi màu tóc theo ngày.
Hạn Chế Dùng Thuốc Kháng Sinh Trong Điều Trị Bệnh Ở Trẻ Em
Dùng thuốc kháng sinh không đúng cách ở trẻ có thể gây ra tình trạng: quá liều, kháng thuốc, tiêu chảy, dị ứng, viêm ruột, vàng răng… Đó là những khuyến cáo của Bác sĩ CKI Trần Thị Mỹ Loan, Phó Giám Đốc Đối ngoại của Bệnh viện Quốc tế City. Qua tìm hiểu, tại Bệnh viện Quốc tế City rất hạn chế trong việc sử dụng kháng sinh điều trị bệnh cho trẻ em cũng như người lớn.
Hạn chế dùng thuốc kháng sinh trong điều trị bệnh cho trẻ emVới 14 năm công tác tại các bệnh viện Nhi hàng đầu tại Tp.HCM, BS CKI Trần Thị Mỹ Loan – Giám đốc Y vụ – Đối ngoại Bệnh viện Quốc tế City có nhiều kinh nghiệm trong việc chẩn đoán và điều trị các bệnh lý Nhi và đặc biệt là bệnh lý sơ sinh. Bác sĩ còn tham gia các công trình nghiên cứu và giảng dạy các bác sĩ ở các bênh viện miền Tây Nam Bộ về các lớp học chuyên về bệnh lý sơ sinh.
Bác sĩ có hơn 10 năm làm việc về lĩnh vực chăm sóc sức khỏe tại Mỹ, áp dụng phương pháp hạn chế kháng sinh triệt để trong quá trình điều trị bệnh cho bệnh nhân từ nhi cho đến người lớn cũng như ngay cả bản thân mình.
Khi được đặt câu hỏi, trong một số trường hợp, phụ huynh sốt ruột khi con em mình kéo dài bệnh như sốt, ho, viêm họng và họ yêu cầu bác sĩ phải điều trị nhanh chóng để con em họ mau hết bệnh, thì phương pháp không dùng thuốc kháng sinh có hiệu quả không? Bác sĩ Loan trả lời rằng: “Nếu bạn tin tưởng bác sĩ thì hãy để bác sĩ điều trị cho con bạn. Nếu bạn không tin tưởng bác sĩ thì bạn có quyền khước từ điều trị cho con em mình. Cá nhân tôi, rất hạn chế dùng kháng sinh. Bởi vì, dùng hay không dùng thì về cơ bản các triệu chứng bệnh như sốt siêu vi, viêm họng cũng phải 5-7 ngày mới dứt. Chưa kể, dùng kháng sinh thì tác hại về sau cho trẻ như tôi đã nói ở trên là rất nguy hại cho con em bạn”.
Nguy hại từ việc dùng thuốc kháng sinhQuá liều
Theo bác sĩ Loan, sử dụng quá liều kháng sinh có thể làm thay đổi vi khuẩn hoặc virus khiến cơ thể không thể kháng lại chúng. Các vi khuẩn sẽ đòi hỏi liều thuốc cao hơn hoặc mạnh hơn, dần dần sẽ kháng được cả những loại kháng sinh mạnh nhất.
Kháng thuốc
Mỗi loại kháng sinh có liều lượng và thời hạn sử dụng nhất định. Các bác sĩ sẽ kê toa theo ngày và bạn phải làm theo đúng điều đó. Chẳng hạn, nếu bác sĩ kê thuốc trong 5 ngày, bạn cần cho bé uống đủ 5 ngày kể cả khi bé đã khỏe mạnh trước đó. Uống không đủ liều sẽ dẫn đến hình thành các vi khuẩn kháng thuốc, khiến bệnh trầm trọng hơn trong thời gian tới.
Tiêu diệt các vi khuẩn có lợi trong cơ thể
Thuốc kháng sinh không chỉ chống lại các vi khuẩn có hại, nó có thể tiêu diệt một số lượng lớn hệ thống vi khuẩn có lợi của ruột, ảnh hưởng đến các hoạt động lành mạnh của cơ thể.
Khoa Nhi Bệnh viện Quốc tế City. Tiêu chảy
Đây là một trong những triệu chứng thường gặp khi trẻ em uống thuốc kháng sinh. Thiệt hại của các vi khuẩn có lợi khiến việc tiêu hóa thức ăn không đúng cách là lý do chính gây tiêu chảy. Bạn nên cho trẻ uống bổ sung vitamin cùng với kháng sinh để ngăn chặn điều này.
Dị ứng
Một số trẻ bị phản ứng dị ứng với thuốc kháng sinh như penicillin. Khi đi khám bệnh, bạn nên thông báo cho bác sĩ nếu con bạn từng có dấu hiệu dị ứng khi dùng bất cứ loại thuốc nào trước đó.
Viêm ruột
Sử dụng kháng sinh thường xuyên có thể gây viêm ruột cho trẻ. Đây là một trong những lý do gây đau dạ dày ở trẻ. Cần nói chuyện với bác sĩ nếu con bạn gặp tác dụng phụ sau khi uống kháng sinh. Đặc biệt, hạn chế sử dụng thuốc kháng sinh nếu không cần thiết để giúp bé có một cuộc sống khỏe mạnh hơn.
Gây vàng răng
Hầu hết trẻ em đều uống nhiều thuốc kháng sinh và đây chính là một nguyên nhân làm vàng răng ở trẻ nhỏ. Thuốc chống rối loạn thần kinh và kháng sinh trị dị ứng làm răng đổi sang màu vàng.
Bệnh viện Quốc tế City
Số 3, đường 17A, P. Bình Trị Đông B, Quận Bình Tân, TP.HCM.
ĐT: (8428) 6280 3333 (Bấm phím 0) để gặp tổng đài viên.
Website: www.cih.com.vn.
Y Sĩ Đa Khoa Lưu Ý Khi Sử Dụng Thuốc Kháng Sinh Amoxicillin
Thuốc kháng sinh Amoxicillin là một loại kháng sinh tiêu diệt vi khuẩn đường hô hấp. Vậy dùng kháng sinh Amoxicillin như thế nào để đạt hiệu quả cao?
Thuốc kháng sinh Amoxicillin 500mg
Bài viết được tham vấn bởi các chuyên gia 2023 tại Trường CĐ Y Dược Pasteur về thông tin thuốc Amoxicillin.
Thuốc Amo điều trị các bệnh nội khoa như; nhiễm khuẩn đường hô hấp trên, nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới do liên cầu khuẩn, phế cầu khuẩn, tụ cầu khuẩn không tiết penicilinase và H. influenzae, nhiễm khuẩn đường tiết niệu không biến chứng, bệnh lậu.
Thành phần của thuốc kháng sinh Amoxicillin
Dược chất chính: Thuốc kháng sinh Amoxicillin
Loại thuốc: Thuốc trị ký sinh trùng, chống nhiễm khuẩn, kháng virus,kháng nấm
Dạng thuốc, hàm lượng: Hộp 10 vỉ x 10 viên nang
Công dụng của thuốc kháng sinh Amoxicillin
Nhiễm khuẩn đường hô hấp trên.
Nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới do liên cầu khuẩn, phế cầu khuẩn, tụ cầu khuẩn không tiết penicilinase và H. influenzae.
Nhiễm khuẩn đường tiết niệu không biến chứng.
Nhiễm khuẩn đường mật.
Nhiễm khuẩn da, cơ do liên cầu khuẩn, tụ cầu khuẩn, E. coli nhạy cảm với amoxicilin.
Liều dùng của thuốc kháng sinh AmoxicillinDược sĩ Cao đẳng Dược Pasteur – Trường Cao đẳng Y dược Pasteur hướng dẫn sử dụng thuốc kháng sinh Amoxicillin như sau:
Thuốc được dùng bằng đường uống
Liều thường dùng là 250 – 500 mg, khoảng 8 giờ một lần.
Trẻ em đến 10 tuổi có thể dùng liều 125 – 250 mg, khoảng 8 giờ một lần.
Trẻ em dưới 20 kg thường dùng liều 20 – 40 mg/kg thể trọng/ngày.
Liều 3g, nhắc lại sau 8 giờ để điều trị áp-xe quanh răng, hoặc nhắc lại sau 10 – 12 giờ để điều trị nhiễm khuẩn cấp đường tiết niệu không biến chứng.
Ðể dự phòng viêm màng trong tim ở người dễ mắc, cho liều duy nhất 3 g trong 1 giờ trước khi làm thủ thuật như nhổ răng.
Dùng phác đồ liều cao 3 g x 2 lần/ngày cho người bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp nặng hoặc tái phát.
Nếu cần, trẻ em 3 – 10 tuổi bị viêm tai giữa có thể dùng liều 750 mg x 2 lần/ngày trong 2 ngày.
Ðối với người suy thận, phải giảm liều theo hệ số thanh thải creatinin:
Cl creatinin < 10 ml/phút: 500 mg/24 giờ.
Các chuyên gia y dược tại Trường Cao đẳng Y dược Pasteur cho biết: Nếu nạn nhân hôn mê hoặc không thở được, cần gọi cấp cứu ngay lập tức.
Người bệnh chỉ dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ
Lưu ý khi sử dụng thuốc kháng sinh Amoxicillin
Phải định kỳ kiểm tra một số chức năng gan, thận trong suốt quá trình điều trị dài ngày.
Có thể xảy ra phản ứng quá mẫn trầm trọng ở một số bệnh nhân có tiền sử dị ứng với penicillin hoặc một số dị nguyên khác, nên cần phải điều tra kỹ tiền sử dị ứng với penicillin, cephalosporin và một số dị nguyên khác.
Nếu phản ứng dị ứng xảy ra như ban đỏ, phù Quincke, sốc phản vệ, hội chứng Stevens-Johnson, phải ngừng dùng thuốc kháng sinh Amoxicillin và ngay lập tức điều trị cấp cứu bằng adrenalin, thở oxy, liệu pháp corticoid tiêm tĩnh mạch và thông khí, kể cả đặt nội khí quản và không bao giờ được điều trị bằng penicillin hoặc cephalosporin nữa.
Thông tin về thuốc kháng sinh Amoxicillin mang tính chất tham khảo, người bệnh không nên tự ý sử dụng thuốc kháng sinh khi chưa có chỉ định của y sĩ trung cấp hoặc bác sĩ.
Phân Loại Và Cơ Chế Tác Dụng Của Kháng Sinh
PGS.TS. Hà Hoàng Kiệm, BV 103
Cơ chế tác dụng của kháng sinh
Các kháng sinh này chỉ tác động ở giai đoạn sinh sản của vi khuẩn như nhóm b-lactamin, vancomycin.
Các kháng sinh này tác động ở cả giai đoạn sinh sản và không sinh sản của vi khuẩn. Tại những vị trí tác động của kháng sinh, màng nguyên sinh chất bị biến đổi và để thoát các chất có trọng lượng phân tử thấp ở bên trong tế bào ra ngoài, như vancomycin, baxitraxin, novobioxin các kháng sinh này vừa ức chế tổng hợp thành tế bào vừa làm đảo lộn cấu trúc màng nguyên sinh chất. Một số kháng sinh khác làm thoái hoá có chọn lọc cấu trúc của màng nguyên sinh chất như polymicin, colistin, gramicidin, amphoterixin B.
+ Ức chế tổng hợp nucleotid: các kháng sinh có tính chất chống u
+ Ức chế tổng hợp ADN: acid nalidixic, griseofulvin
+ Ức chế sao chép thông tin di truyền và tổng hợp ARN: actinomycin
+ Ức chế tổng hợp protein:
* Ngăn cản sự cố định của ARNm lên ribosom: cloramphenicol
* Ngăn cản sự cố định lên ribosom của phức hợp ARNt-acid amin do gắn lên đơn vị 50S của ribosom: tetracyclin, lincomycin.
* Làm đảo lộn cấu trúc của ribosom và làm sai sót trong việc đọc mã do gắn lên đơn vị 30S của ribosom, làm tế bào tổng hợp ra một protein dị thường, làm ngừng một chức năng chuyển hoá hoặc cấu trúc cần thiết cho sự sống của tế bào: nhóm aminoglycosid.
* Ức chế sự hình thành các cầu nối peptidic.
* Cơ chế phụ hoặc không rõ rệt: 1 số kháng sinh có thể thu hút một số ion kim loại như novobioxin và tetracyclin có thể cố định các ion Mg++.
Thông thường các nhóm kháng sinh được phân loại theo cấu trúc hoá học của chúng. Theo cách phân loại này, kháng sinh được chia thành các nhóm như sau (Bảng I.1):
Nhóm beta-lactam là một họ kháng sinh rất lớn, bao gồm các kháng sinh có cấu trúc hóa học chứa vòng beta-lactam. Khi vòng này liên kết với một cấu trúc vòng khác sẽ hình thành các phân nhóm lớn tiếp theo: nhóm penicilin, nhóm cephalosporin và các beta-lactam khác.
– Các thuốc kháng sinh nhóm penicilin đều là dẫn xuất của acid 6-aminopenicilanic (viết tắt là A6AP). Trong các kháng sinh nhóm penicilin, chỉ có penicilin G là kháng sinh tự nhiên, được chiết xuất từ môi trường nuôi cấy nấm Penicilium. Các kháng sinh còn lại đều là các chất bán tổng hợp.
– Sự thay đổi nhóm thế trong cấu trúc của penicilin bán tổng hợp dẫn đến sự thay đổi tính bền vững với các enzym penicilinase và beta-lactamase; thay đổi phổ kháng khuẩn cũng như hoạt tính kháng sinh trên các chủng vi khuẩn gây bệnh.
– Dựa vào phổ kháng khuẩn, có thể tiếp tục phân loại các kháng sinh nhóm Penicilin thành các phân nhóm với phổ kháng khuẩn tương ứng như sau:
+ Các penicilin phổ kháng khuẩn hẹp.
+ Các penicilin phổ kháng khuẩn hẹp đồng thời có tác dụng trên tụ cầu.
+ Các penicilin phổ kháng khuẩn trung bình.
+ Các penicilin phổ kháng khuẩn rộng đồng thời có tác dụng trên trực khuẩn mủ xanh.
– Đại diện của mỗi phân nhóm và phổ kháng khuẩn tương ứng được trình bày trong Bảng I.2.
1.2. Phân nhóm cephalosporin
– Cấu trúc hóa học của các kháng sinh nhóm cephalosporin đều là dẫn xuất của acid 7-aminocephalosporanic (viết tắt là A7AC). Các cephalosporin khác nhau được hình thành bằng phương pháp bán tổng hợp. Sự thay đổi các nhóm thế sẽ dẫn đến thay đổi đặc tính và tác dụng sinh học của thuốc.
– Các cephalosporin bán tổng hợp tiếp tục được chia thành 4 thế hệ. Sự phân chia này không còn căn cứ trên cấu trúc hóa học mà chủ yếu dựa vào phổ kháng khuẩn của kháng sinh. Xếp theo thứ tự từ thế hệ 1 đến thế hệ 4, hoạt tính trên vi khuẩn Gram-dương giảm dần và hoạt tính trên vi khuẩn Gram-âm tăng dần. Phổ kháng khuẩn của một số cephalosporin trong từng thế hệ được trình bày trong Bảng I.3. Lưu ý thêm là tất cả các cephalosporin hầu như không có tác dụng trên enterococci, Listeria monocytogenes, Legionella spp., S. aureus kháng methicilin, Xanthomonas maltophilia, và Acinetobacter spp.
Nghiên cứu biến đổi cấu trúc hóa học của penicilin và cephalosporin đã tạo thành một nhóm kháng sinh beta-lactam mới, có phổ kháng khuẩn rộng, đặc biệt có hoạt tính rất mạnh trên vi khuẩn Gram-âm – đó là kháng sinh nhóm carbapenem. Tên thuốc và phổ tác dụng của một số kháng sinh trong nhóm này được trình bày trong Bảng I.4.
– Kháng sinh monobatam là kháng sinh mà công thức phân tử có chứa beta-lactam đơn vòng. Chất điển hình của nhóm này là aztreonam.
– Phổ kháng khuẩn của aztreonam khá khác biệt với các kháng sinh họ beta-lactam và có vẻ gần hơn với phổ của kháng sinh nhóm aminoglycosid. Thuốc chỉ có tác dụng trên vi khuẩn Gram-âm, không có tác dụng trên vi khuẩn Gram-dương và vi khuẩn kỵ khí. Tuy nhiên, hoạt tính rất mạnh trên Enterobacteriaceae và có tác dụng đối với P. aeruginosa.
Các chất này cũng có cấu trúc beta-lactam, nhưng không có hoạt tính kháng khuẩn, mà chỉ có vai trò ức chế enzym beta-lactamase do vi khuẩn tiết ra. Các chất hiện hay được sử dụng trên lâm sàng là acid clavulanic, sulbactam và tazobactam.
1.4. Tác dụng không mong muốn (ADR) của các kháng sinh nhóm betalactam
– Dị ứng với các biểu hiện ngoài da như mề đay, ban đỏ, mẩn ngứa, phù Quincke gặp với tỷ lệ cao. Trong các loại dị ứng, sốc phản vệ là ADR (Adverse Drug Reaction) nghiêm trọng nhất có thể dẫn đến tử vong.
– Tai biến thần kinh với biểu hiện kích thích, khó ngủ. Bệnh não cấp là ADR thần kinh trầm trọng (rối loạn tâm thần, nói sảng, co giật, hôn mê), tuy nhiên tai biến này thường chỉ gặp ở liều rất cao hoặc ở người bệnh suy thận do ứ trệ thuốc gây quá liều.
– Các ADR khác có thể gặp là gây chảy máu do tác dụng chống kết tập tiểu cầu của một số cephalosporin; rối loạn tiêu hoá do loạn khuẩn ruột với loại phổ rộng.
2. KHÁNG SINH NHÓM AMINOGLYCOSID
Các aminosid có thể là sản phẩm tự nhiên phân lập từ môi trường nuôi cấy các chủng vi sinh, cũng có thể là các kháng sinh bán tổng hợp. Các kháng sinh thuộc nhóm này bao gồm kanamycin, gentamicin, neltimicin, tobramycin, amikacin.
Các kháng sinh nhóm aminoglycosid có phổ kháng khuẩn chủ yếu tập trung trên trực khuẩn Gram-âm, tuy nhiên phổ kháng khuẩn của các thuốc trong nhóm không hoàn toàn giống nhau. Kanamycin cũng như streptomycin có phổ hẹp nhất trong số các thuốc nhóm này, chúng không có tác dụng trên Serratia hoặc P. aeruginosa. Tobramycin và gentamicin có hoạt tính tương tự nhau trên các trực khuẩn Gram-âm, nhưng tobramycin có tác dụng mạnh hơn trên P. aeruginosa và Proteus spp, trong khi gentamicin mạnh hơn trên Serratia. Amikacin và trong một số trường hợp là neltimicin, vẫn giữ được hoạt tính trên các chủng kháng gentamicin vì cấu trúc của các thuốc này không phải là cơ chất của nhiều enzym bất hoạt aminoglycosid.
2.2. Tác dụng không mong muốn (ADR – Adverse Drug Reaction)
– Giảm thính lực và suy thận là 2 loại ADR thường gặp nhất. Cả 2 loại ADR này sẽ trở nên trầm trọng (điếc không hồi phục, hoại tử ống thận hoặc viêm thận kẽ) khi sử dụng ở người bệnh suy thận, người cao tuổi (chức năng thận giảm) hoặc dùng đồng thời với thuốc có cùng độc tính (vancomycin, furosemid…).
– Nhược cơ cũng là ADR có thể gặp khi sử dụng aminoglycosid do tác dụng ức chế dẫn truyền thần kinh – cơ. ADR này ít gặp nhưng tỷ lệ tăng lên khi sử dụng phối hợp với thuốc mềm cơ cura (do đó cần lưu ý ngừng kháng sinh trước ngày người bệnh cần phẫu thuật). Tác dụng liệt cơ hô hấp có thể gặp nếu tiêm tĩnh mạch trực tiếp do tạo nồng độ cao đột ngột trong máu; vì vậy kháng sinh này chỉ được truyền tĩnh mạch (truyền quãng ngắn) hoặc tiêm bắp.
– Những ADR thông thường như gây dị ứng da (ban da, mẩn ngứa) hoặc sốc quá mẫn cũng gặp với nhóm kháng sinh này.
3. KHÁNG SINH NHÓM MACROLID
Các macrolid có thể là sản phẩm tự nhiên phân lập từ môi trường nuôi cấy các chủng vi sinh, cũng có thể là các kháng sinh bán tổng hợp. Tùy theo cấu trúc hóa học, có thể chia kháng sinh nhóm macrolid thành 3 phân nhóm:
– Cấu trúc 14 nguyên tử carbon: erythromycin, oleandomycin, roxithromycin, clarithromycin, dirithromycin.
– Cấu trúc 15 nguyên tử carbon: azithromycin.
– Cấu trúc 16 nguyên tử carbon: spiramycin, josamycin.
– Macrolid có phổ kháng khuẩn hẹp, chủ yếu tập trung vào một số chủng vi khuẩn Gram-dương và một số vi khuẩn không điển hình.
– Macrolid có hoạt tính trên cầu khuẩn Gram-dương (liên cầu, tụ cầu), trực khuẩn Gram-dương ( Clostridium perfringens, Corynebacterium diphtheriae, Listeria monocytogenes). Thuốc không có tác dụng trên phần lớn các chủng trực khuẩn Gram-âm đường ruột và chỉ có tác dụng yếu trên một số chủng vi khuẩn Gram-âm khác như H. influenzae và N. meningitidis, tuy nhiên lại có tác dụng khá tốt trên các chủng N. gonorrhoeae. Kháng sinh nhóm macrolid tác dụng tốt trên các vi khuẩn nội bào như Campylobacter jejuni, M. pneumoniae, Legionella pneumophila, C. trachomatis, Mycobacteria (bao gồm M. scrofulaceum, M. kansasii, M. avium-intracellulare – nhưng không tác dụng trên M. fortuitum).
3.3. Tác dụng không mong muốn (ADR)
– ADR thường gặp nhất là các tác dụng trên đường tiêu hoá: gây buồn nôn, nôn, đau bụng, ỉa chảy (gặp khi dùng đường uống), viêm tĩnh mạch huyết khối (khi tiêm tĩnh mạch). Thuốc bị chuyển hoá mạnh khi qua gan nên có thể gây viêm gan hoặc ứ mật. Có thể gây điếc, loạn nhịp tim nhưng với tỷ lệ thấp.
– Những ADR thông thường như gây dị ứng da (ban da, mẩn ngứa) hoặc sốc quá mẫn cũng gặp với nhóm kháng sinh này.
4. KHÁNG SINH NHÓM LINCOSAMID
Nhóm kháng sinh này bao gồm hai thuốc là lincomycin và clindamycin, trong đó lincomycin là kháng sinh tự nhiên, clindamycin là kháng sinh bán tổng hợp từ lincomycin.
– Kháng sinh nhóm lincosamid có phổ kháng khuẩn tương tự như kháng sinh nhóm macrolid trên pneumococci, S. pyogenes, và viridans streptococci. Thuốc có tác dụng trên S. aureus, nhưng không có hiệu quả trên S. aureus kháng methicilin. Thuốc cũng không có tác dụng trên trực khuẩn Gram-âm hiếu khí.
– Khác với macrolid, kháng sinh lincosamid có tác dụng tốt trên một số chủng vi khuẩn kỵ khí, đặc biệt là B. fragilis. Thuốc có tác dụng tương đối tốt trên C. perfringens, nhưng có tác dụng khác nhau trên các chủng Clostridium spp. khác.
– Cũng khác với macrolid, kháng sinh nhóm này chỉ tác dụng yếu hoặc không có tác dụng trên các chủng vi khuẩn không điển hình như M. pneumoniae hay Chlamydia spp.
4.2. Tác dụng không mong muốn (ADR)
Tác dụng không mong muốn thường gặp nhất là gây ỉa chảy, thậm chí trầm trọng do bùng phát Clostridium difficile, gây viêm đại tràng giả mạc có thể tử vong. Viêm gan, giảm bạch cầu đa nhân trung tính cũng gặp nhưng hiếm và có thể hồi phục.
5. KHÁNG SINH NHÓM PHENICOL
Nhóm kháng sinh này bao gồm hai thuốc là cloramphenicol và thiamphenicol, trong đó cloramphenicol là kháng sinh tự nhiên, còn thiamphenicol là kháng sinh tổng hợp.
– Kháng sinh nhóm phenicol có phổ kháng khuẩn rộng, bao gồm các cầu khuẩn Gram-dương, một số vi khuẩn Gram-âm như H. influenzae, N. meningitidis, N. gonorrhoeae, Enterobacteriaceae ( Escherichia coli, Klebsiella pneumoniae, Salmonella, Shigella). Thuốc có tác dụng trên các chủng kỵ khí như Clostridium spp., B. fragilis. Thuốc cũng có tác dụng trên các chủng vi khuẩn không điển hình như Mycoplasma, Chlamydia, Rickettsia.
– Tuy nhiên, do đưa vào sử dụng đã rất lâu nên hiện nay phần lớn các chủng vi khuẩn gây bệnh đã kháng các thuốc nhóm phenicol với tỷ lệ cao, thêm vào đó nhóm thuốc này lại có độc tính nghiêm trọng trên tạo máu dẫn đến hiện tại thuốc không còn được sử dụng phổ biến trên lâm sàng.
5.2. Tác dụng không mong muốn (ADR)
Tác dụng phụ gây bất sản tuỷ dẫn đến thiếu máu trầm trọng gặp với cloramphenicol. Hội chứng xám (Grey-syndrome) gây tím tái, truỵ mạch và có thể tử vong, thường gặp ở trẻ sơ sinh, nhất là trẻ đẻ non. Hiện kháng sinh này ít được sử dụng do nguy cơ gây bất sản tuỷ có thể gặp ở mọi mức liều; tuy hiếm gặp nhưng rất nguy hiểm, dễ gây tử vong.
6. KHÁNG SINH NHÓM CYCLIN
Các thuốc nhóm này gồm cả các kháng sinh tự nhiên và kháng sinh bán tổng hợp. Các thuốc thuộc nhóm bao gồm: chlortetracyclin, oxytetracyclin, demeclocyclin, methacyclin, doxycyclin, minocyclin.
– Các kháng sinh nhóm cyclin có phổ kháng khuẩn rộng trên cả các vi khuẩn Gram-âm và Gram-dương, cả vi khuẩn hiếu khí và kỵ khí. Thuốc cũng có tác dụng trên các chủng vi khuẩn gây bệnh không điển hình như Rickettsia, Coxiella burnetii, Mycoplasma pneumoniae, Chlamydia spp., Legionella spp., Ureaplasma,…Ngoài ra, thuốc cũng hiệu quả trên một số xoắn khuẩn như Borrelia recurrentis, Borrelia burgdorferi (gây bệnh Lyme), Treponema pallidum (giang mai), Treponema pertenue.
– Là kháng sinh được đưa vào điều trị từ rất lâu, hiện nay tỷ lệ kháng tetracyclin của vi khuẩn gây bệnh cũng rất cao. Một số cyclin sử dụng sau như doxycyclin hay minocyclin có thể tác dụng được trên một số chủng vi khuẩn đã kháng với tetracyclin.
6.2. Tác dụng không mong muốn (ADR)
7. KHÁNG SINH NHÓM PEPTID
Các kháng sinh thuộc nhóm này có cấu trúc hóa học là các peptid. Dùng trong lâm sàng hiện nay có các phân nhóm:
– Glycopeptid (vancomycin, teicoplanin)
– Polypetid (polymyxin, colistin)
– Lipopeptid (daptomycin)
7.1. Kháng sinh Glycopeptid
– Hiện nay có hai kháng sinh glycopeptid đang được sử dụng trên lâm sàng là vancomycin và teicoplanin. Đây là hai kháng sinh đều có nguồn gốc tự nhiên, có cấu trúc hóa học gần tương tự nhau. Hai kháng sinh này có phổ tác dụng cũng tương tự nhau, chủ yếu trên các chủng vi khuẩn Gram-dương ( S. aureus, S. epidermidis, Bacillus spp., Corynebacterium spp…); phần lớn các chủng Actinomyces và Clostridium nhạy cảm với thuốc. Thuốc không có tác dụng trên trực khuẩn Gram-âm và Mycobacteria. Trên lâm sàng, hai thuốc này chủ yếu được sử dụng trong điều trị S. aureus kháng methicilin.
– Tác dụng không mong muốn (ADR)
+ Teicoplanin: tác dụng không mong muốn chính của thuốc là ban da, thường gặp hơn khi dùng với liều cao. ADR khác bao gồm phản ứng quá mẫn, sốt, giảm bạch cầu trung tính… Thuốc cũng có độc tính trên tai nhưng hiếm gặp.
7.2. Kháng sinh Polypeptid
– Các kháng sinh được sử dụng trên lâm sàng thuộc nhóm này bao gồm polymyxin B (hỗn hợp của polymyxin B1 và B2) và colistin (hay còn gọi là polymyxin E). Các kháng sinh này đều có nguồn gốc tự nhiên, có cấu trúc phân tử đa peptid, với trọng lượng phân tử lên đến khoảng 1000 dalton. Phổ tác dụng của hai thuốc này tương tự nhau, chỉ tập trung trên trực khuẩn Gram-âm, bao gồm Enterobacter, E. coli, Klebsiella, Salmonella, Pasteurella, Bordetella, và Shigella. Thuốc cũng có tác dụng trên phần lớn các chủng P.aeruginosa, Acinetobacter.
– Các thuốc nhóm này có độc tính cao, đặc biệt là độc tính trên thận, vì vậy hiện nay polymyxin chỉ dùng ngoài, còn colistin chỉ có chỉ định hạn chế trong một số trường hợp vi khuẩn Gram-âm đa kháng, khi không dùng được các kháng sinh khác an toàn hơn.
– Tác dụng không mong muốn (ADR):
Các thuốc nhóm polypeptid không được hấp thu nếu dùng ngoài trên da và niêm mạc nguyên vẹn, vì vậy không gây ADR toàn thân. Tuy nhiên, thuốc vẫn có thể gây một số ADR dạng quá mẫn khi dùng tại chỗ. Khi dùng đường tiêm, thuốc gây ức chế dẫn truyền thần kinh cơ, với các biểu hiện như yếu cơ hoặc nguy hiểm hơn là ngừng thở. Các ADR khác trên thần kinh khác bao gồm dị cảm, chóng mặt, nói lắp. Các thuốc nhóm này đều rất độc với thận, cần giám sát chặt chẽ, cố gắng tránh dùng cùng với các thuốc độc thận khác như kháng sinh aminoglycosid.
7.3. Kháng sinh Lipopeptid
– Kháng sinh nhóm này được sử dụng trên lâm sàng là daptomycin, đây là kháng sinh tự nhiên chiết xuất từ môi trường nuôi cấy Streptomyces roseosporus.
– Phổ kháng khuẩn:
Thuốc có tác dụng trên vi khuẩn Gram-dương hiếu khí và kỵ khí như staphylococci, streptococci, Enterococcus, Corynebacterium spp., Peptostreptococcus, Propionibacteria, Clostridium perfringens… Đặc biệt, thuốc có tác dụng trên các chủng vi khuẩn kháng vancomycin, tuy nhiên MIC trong các trường hợp này cao hơn so với trên các chủng nhạy cảm với vancomycin.
ADR cơ bản của thuốc này là gây tổn thương trên hệ cơ xương. Đã có báo cáo về các trường hợp tiêu cơ vân, tuy hiếm gặp. Tăng Creatin kinase (CK) có thể xảy ra, nhưng nếu tăng CK đơn thuần thường không cần dừng thuốc, trừ khi tăng CK kèm theo các biểu hiện khác của bệnh lý cơ. Trong thử nghiệm lâm sàng pha 1 và pha 2, đã ghi nhận một vài trường hợp có biểu hiện của bệnh lý thần kinh cơ, tuy nhiên không gặp ADR này trong thử nghiệm lâm sàng pha 3.
8. KHÁNG SINH NHÓM QUINOLON
8.1. Phân loại và phổ kháng khuẩn
– Các kháng sinh nhóm quinolon không có nguồn gốc tự nhiên, toàn bộ được sản xuất bằng tổng hợp hóa học.
– Các kháng sinh trong cùng nhóm quinolon nhưng có phổ tác dụng không hoàn toàn giống nhau. Căn cứ vào phổ kháng khuẩn, theo một số tài liệu, quinolon tiếp tục được phân loại thành các thế hệ như tóm tắt trong Bảng I.5.
8.2. Tác dụng không mong muốn (ADR)
ADR đặc trưng của nhóm là viêm gân, đứt gân Asin; Tỷ lệ gặp tai biến tăng nếu sử dụng trên người bệnh suy gan và/hoặc suy thận, người cao tuổi hoặc dùng cùng corticosteroid. Biến dạng sụn tiếp hợp đã gặp trên động vật non, do đó cũng có thể gặp ở trẻ em tuổi phát triển nhưng rất hiếm. Tác dụng phụ trên thần kinh trung ương, gây nhức đầu, kích động, co giật, rối loạn tâm thần, hoang tưởng. Các ADR của nhóm kháng sinh này tương tự các cyclin là tác dụng trên đường tiêu hoá, gây buồn nôn, nôn, đau bụng, ỉa chảy hoặc gây suy gan, suy thận, mẫn cảm với ánh sáng.
9. CÁC NHÓM KHÁNG SINH KHÁC
– Co-trimoxazol là dạng thuốc phối hợp giữa sulfamethoxazol với trimethoprim. Phổ kháng khuẩn của hai thành phần này tương tự nhau và sự phối hợp này mang lại tính hiệp đồng trên tác động ức chế tổng hợp acid folic của vi khuẩn. Phổ kháng khuẩn của Co-trimoxazol khá rộng trên nhiều vi khuẩn Gram-dương và Gram-âm, tuy nhiên Pseudomonas aeruginosa, Bacteroides fragilis, và enterococci thường kháng thuốc. Thêm vào đó, do đưa vào sử dụng đã khá lâu nên hiện nay Co-trimoxazol đã bị kháng với tỷ lệ rất cao.
– Tác dụng không mong muốn (ADR):
ADR đặc trưng của các dẫn chất sulfonamid là các phản ứng dị ứng như mày đay, ngứa, phát ban, hội chứng Stevens-Johnson hoặc Lyell với các ban phỏng nước toàn thân, đặc biệt là loét hốc tự nhiên (miệng, bộ phận sinh dục, hậu môn) kèm theo các triệu chứng toàn thân trầm trọng như truỵ tim mạch, sốt cao, thậm chí tử vong. Độc tính trên gan thận: gây tăng transaminase, viêm gan, vàng da, ứ mật hoặc suy thận cấp (thiểu niệu, vô niệu). Trên máu gây thiếu máu do tan máu gặp nhiều ở người thiếu men G6PD.
– Đây là nhóm kháng sinh tổng hợp hóa học, với đại diện là linezolid. Thuốc có tác dụng trên vi khuẩn Gram-dương như staphylococci, streptococci, enterococci, cầu khuẩn Gram-dương kỵ khí, Corynebacterium spp., Listeria monocytogenes. Thuốc hầu như không có tác dụng trên vi khuẩn Gram-âm cả hiếu khí và kỵ khí. Trên lâm sàng, linezolid thường được chỉ định trong các trường hợp vi khuẩn Gram-dương đã kháng các thuốc kháng sinh khác như S. pneumoniae kháng penicilin, các chủng staphylococci kháng methicilin trung gian và kháng vancomycin, enterococci kháng vancomycin.
9.3. Kháng sinh nhóm 5-nitro-imidazol
– Như tên gọi của nhóm thuốc, các thuốc nhóm này là dẫn xuất của 5-nitro imidazol, có nguồn gốc tổng hợp hóa học. Một số thuốc thường được sử dụng trong lâm sàng là metronidazol, tinidazol, ornidazol, secnidazol… Các thuốc này chủ yếu được chỉ định trong điều trị đơn bào ( Trichomonas, Chlamydia, Giardia…) và hầu hết các vi khuẩn kỵ khí ( Bacteroides, Clostridium…)
Nguồn: Hà Hoàng Kiệm. Thực hành cấp cứu và điều trị bệnh nội khoa. NXB YH. 2006 2008, 2013
CHIA SẺ BÀI VIẾTThuốc Tê Nhổ Răng Có Tác Dụng Trong Bao Lâu Là Tối Đa?
NHAKHOABALLY.VN
Hỏi: Em chào bác sỹ. Bác sĩ cho em hỏi thuốc tê nhổ răng có tác dụng trong bao lâu tối đa? Có phương pháp nhổ răng khôn nào hạn chế …
Trả lời:
Chào bạn Mai Hoa!
1. Thuốc tê nhổ răng có tác dụng trong bao lâu tối đa?Các trường hợp nhổ răng đều cần đến sự hỗ trợ của thuốc gây tê, gây mê ngăn chặn phản ứng đau nhức, đảm bảo trong quá trình nhổ răng được thuận lợi nhất. Vậy thuốc tê có tác dụng trong bao lâu?
+ Tùy vào vị trí răng cần nhổ mà thời gian tác động của thuốc tê khác nhau. Thông thường, tính từ khi gây tê đến khi thuốc tê hết tác dụng trong khoảng từ 10-30 phút. Sau khi hết thuốc tê bạn sẽ có cảm giác hơi đau nhức từ vết thương nhổ răng. Lúc này, lấy đá chườm bên ngoài và uống thuốc theo chỉ định của bác sỹ giúp giảm đau hiệu quả nhất. Ngoài ra, tùy vào cơ địa của từng người mà thời gian tác động của thuốc tê sau khi nhổ răng là khác nhau.
Bạn cần lưu ý, sau khi nhổ răng xong, lúc thuốc tê vẫn còn tác dụng nên hạn chế ăn nhai, tránh cắn vào môi, má, lưỡi, các mô mềm trong khoang miệng. Tốt nhất nên chờ thuốc tê nhổ răng hết tác dụng mới ăn uống tránh những biến chứng do thuốc tê gây ra.
+ Với những răng sữa bị lung lay, bạn chỉ cần nhẹ nhàng nhổ bỏ mà không cần sử dụng đến thuốc tê. Còn những trường hợp răng sữa đã bị sâu, nhiễm bệnh lý hay viêm nhiễm nặng, thuốc tê là biện pháp được ưu tiên hàng đầu và dùng theo chỉ định của bác sỹ.
+ Ở các răng vĩnh viễn, có cấu tạo phức tạp hơn, quá trình thực hiện nhổ răng khó hơn. Yêu cầu việc sử dụng phương pháp gây tê cục bộ trước khi thực hiện. Trường hợp nhổ răng khó, răng khôn mọc lệch, mọc ngầm sâu dưới xương hàm bắt buộc phải thực hiện phẫu thuật trong một thời gian dài với liều lượng thuốc tê thích hợp để khống chế cơn đau.
2. Phương pháp nhổ răng không đau buốtPhương pháp nhổ răng không đau buốt được tiến hành nhờ công nghệ nhổ răng siêu âm thế hệ mới. Máy siêu âm nhổ răng Piezotome hoạt động dựa vào tần số siêu âm chọn lọc từ 28-36 Khz sẽ tác động trực tiếp làm đứt các dây chằng nha chu, phân tách răng ra khỏi tổ chức quanh răng và xương ổ răng dễ dàng. Quá trình nhổ răng diễn ra một cách nhẹ nhàng linh hoạt nhờ vào chuyển động của các mũi siêu âm không gây đau đớn.
Nhờ công nghệ này bạn không cần lo lắng thuốc tê nhổ răng có tác dụng trong bao lâu nữa. Với việc tác động của tần sóng siêu âm an toàn có chọn lọc, xác định chính xác vị trí chân răng giúp việc nhổ răng diễn ra thuận lợi nên việc đau buốt sau khi nhổ răng được khắc phục hiệu quả. Ngay sau thời gian thuốc tê hết hiệu lực, bạn không còn cảm thấy ê buốt kéo dài như các phương pháp nhổ răng thông thường.
Nhổ răng bằng máy siêu âm Piezotome không gây ra biến chứng. Các mũi siêu âm được cài đặt ở chế độ thông minh, có chọn lọc nên chỉ tác động lên các mô cứng và các điểm tiếp xúc với bề mặt răng. Nhổ răng bằng công nghệ siêu âm hoàn toàn không làm tổn thương đến các mô mềm, cũng như là tổn hại tới xương ổ răng.
+ Giảm sưng nề và lành vết thương nhanh chóngĐây còn là biện pháp khắc phục hiệu quả sưng và liền thương nhanh chóng. Sự biến điệu tần số của sóng siêu âm Piezotome được chứng minh là rất êm và dịu đối với các mô mềm trong khoang miệng. Suốt quá trình sử dụng, chúng tác động giúp tái tạo tế bào và kích thích liền thương nhanh, không sưng nề.
Cập nhật thông tin chi tiết về Hạn Chế Tối Đa Sử Dụng Thuốc Kháng Sinh trên website Sdbd.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!